Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm
Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của
cõi Cực lạc Tịnh Độ, bằng tự lực với Tín, Nguyện, Hạnh tương ưng
bản nguyện của Đức Phật A Di Đà.
LỜI NÓI ĐẦU
Là phật tử, không ai không biết đến việc tụng kinh
niệm Phật. Việc niệm Phật cùng với việc tụng kinh A Di Đà và một số
bộ kinh thường tụng khác trở thành việc hành trì thường xuyên hàng
ngày của đại đa số phật tử. Trong các pháp môn tu tập, Tịnh Độ là
một trong những pháp môn phổ biến đối với các phật tử tại nhiều
nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam…
Riêng ở nước ta, cùng với sự phát triển của Thiền
tông từ bao thế kỷ nay, Tịnh Độ tông cũng được phát triển đến mức
các nhà tu hành đều thâm sâu cả hai giáo lý và trở thành việc hành
trì theo Thiền-Tịnh song tu. Tuy nhiên, đối với hàng phật tử,
nhất là phật tử tại gia, việc tu theo pháp môn Tịnh Độ, cho đến nay
vẫn còn nhiều điều cần phải tìm hiểu sâu, để qua đó bổ sung cho
việc tinh tấn tu hành. Đa số phật tử chỉ thấy rằng muốn vãng sinh
về Tây phương Cực lạc thì chỉ cần niệm Phật nhất tâm là đủ, thậm
chí cho rằng không cần tụng kinh và thực hành các giáo lý tu tập
khác.
Cuốn TÌM HIỂU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ này mong được góp
phần giúp cho chư vị phật tử tìm hiểu sâu hơn về lịch sử phát triển
pháp môn Tịnh Độ cùng những vấn đề cơ bản về giáo lý, cũng như
phương pháp tu tập và hành trì theo pháp môn Tịnh Độ.
Trong tài liệu này có đề cập đến một số vấn đề khác
nhau về nhận thức cũng như về phương pháp tu tập của Tịnh Độ tông
qua một số tài liệu, bài viết với mục đích tham khảo tìm
hiểu.
Vì trình độ có hạn, ngưỡng mong chư tôn thiền đức,
các bậc thức giả, Phật tử mười phương và quý vị độc giả vui lòng
đón nhận món quà nhỏ mọn này và lượng tình chỉ dẫn những điều còn
sai sót.
Tác giả kính ghi
PHẠM ĐÌNH NHÂN
Pháp danh Chánh Tuệ Định
TÌM HIỂU
PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Tịnh Độ là một trong các tông phái chính của Phật giáo. Giáo lý của
pháp môn Tịnh Độ đã có từ khi Đức Phật tại thế, sau này trở thành
một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với các phật tử tại
nhiều nước Phật giáo Đại thừa. Mãi đến thế kỷ thứ IV, pháp môn Tịnh
Độ mới trở thành một tông phái chính thức tồn tại và phát triển
cùng với nhiều tông phái Phật giáo khác. Và ngày nay, Tịnh Độ tông
trở thành một tông phái có nhiều phật tử tu tập đông đảo nhất không
chỉ ở phương Đông mà ngay cả ở các nước phương Tây.
Trong tài liệu này, xin chỉ bàn đến sự ra đời của pháp môn Tịnh
Độ, lịch sử phát triển của Tịnh Độ, những vấn đề thuộc về giáo lý
và sự thực hành tu tập theo pháp môn Tịnh Độ cùng những ý kiến khác
biệt trong nhận thức và tu hành theo pháp môn Tịnh Độ. Những vấn đề
khác có liên quan đến pháp môn Tịnh Độ như vấn đề hộ niệm và dấu
hiệu của vãng sinh không đề cập đến trong tài liệu này.
Phần I.
LỊCH SỬ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
A. Khái niệm về Pháp môn Tịnh
Độ:
Mục đích cứu cánh của đạo Phật là giải thoát. Đức
Phật Thích Ca đã từng nói: “Nước trong bốn biển đều có một vị, đó
là vị mặn. Tất cả các pháp môn của ta cũng chỉ có một vị, đó là vị
giải thoát”. Vì vậy trong hầu hết các kinh điển của Đức Phật thuyết
pháp đều nói đến con đường giác ngộ và giải thoát. Mà con đường
giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, phải từ tâm mà ra tức là
phải nỗ lực cá nhân. Dù Phật pháp có đến 84 nghìn pháp môn thì pháp
môn nào cũng phải tự mình tu tập để đi đến giải thoát. Rõ ràng muốn
từ bến bờ mê muội bên này sông sang bên kia bờ giải thoát phải tự
mình lên thuyền, tức là phải có công phu tự thân tâm của chính
người tu hành, phải có cả một quá trình tu tập. Pháp môn Tịnh Độ
cũng thế, cũng phải là một quá trình tu tập mang tính tự lực là
chính.
Pháp môn Tịnh Độ là một trong những pháp môn tu tập
phổ biến đối với các Phật tử tại nhiều nước Phật giáo Đại thừa như
Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhìn về lịch sử phát triển Phật
giáo, từ thời Phật giáo nguyên thủy, pháp môn Tịnh Độ chú trọng đến
tự lực. Về sau này, vào những thế kỷ đầu của Tây lịch, Phật giáo
Đại thừa phát triển đa dạng hóa lối tu hành nên có những pháp môn
chú trọng đến tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà tu hành đạt thành
đạo quả, vượt thoát khổ đau. Đó cũng là lý tưởng của pháp môn Tịnh
Độ.Vì vậy, Tịnh độ là một đường lối tu tập phổ biến, đáp ứng nhu
cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn giải thoát khổ
đau của con người để được sống trong cõi Tịnh Độ an vui.
B. Các cõi Tịnh Độ trong Phật
giáo:
Thông thường khi nói đến tịnh độ (Quốc độ thanh
tịnh) các phật tử thường nghĩ đến cảnh giới Tây phương Tịnh Độ, nơi
có Đức Phật A Di Đà và chư Thánh chúng. Nhưng theo Phật giáo Đại
thừa thì có mười phương tịnh độ và mười phương chư Phật. Tuy nhiên
trong các kinh điển thường đề cập đến bốn cõi tịnh độ, đó là: Tịnh
độ Di Lặc, Tịnh độ Dược Sư , Tịnh độ A Súc Phật và Tịnh độ A Di
Đà.
Tịnh là sạch, là thanh tịnh. Tịnh độ là nơi thanh
tịnh, là cảnh giới an lạc không có phiền não, khổ đau. Kinh điển
thường nói đến Tịnh độ với nhiều tên gọi khác nhau như Thanh tịnh
quốc độ, Thanh tịnh Phật sát, Tịnh quốc, Tịnh thế giới hoặc là Phật
quốc. Đó là trụ xứ của chư Phật và chư Bồ tát tiếp độ và giáo hóa
chúng sinh. Tùy theo công đức và nguyện lực đối với từng căn cơ của
chúng sinh mà mỗi vị Phật có mỗi cõi nước khác nhau. Đó là nơi, là
phương tiện giáo hóa của tất cả chư Phật. Điều đó có nghĩa rằng
ngoài thế giới mà chúng ta đang sống còn có vô số thế giới khác. Có
nhiều cõi tịnh độ khác nhau, nhưng thường hay nói đến bốn cõi tịnh
độ chính là:
1.Di Lặc Tịnh Độ:
Đó là cõi tịnh độ của Đức Phật Di Lặc, một vị Phật
tương lai của thế giới loài người đang sống, hiện đang ở cõi trời
Đâu Suất . Ngài Đạo sư Vô Trước , người sáng lập ra trường phái Duy
thức học của Phật giáo đã viết những bộ luận nỗi tiếng như Du
Già Sư Địa luận, Đại Thừa Trang Nghiêm luận, Phân Biệt Du Già luận
và Kim Cương Bát Nhã luận. Tất cả những công đức và trí tuệ này mà
Ngài viết được là do Ngài tiếp nhận được sự giáo hóa của Bồ tát Di
Lặc. Về sau có nhiều hành giả trong trường phái Duy Thức học phát
nguyện sinh về cõi Đâu Suất Tịnh Độ. Đâu Suất Tịnh Độ thuộc tầng
trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi dục. Nếu tu tất cả các thiện
pháp và tùy nguyện mới sinh vào nội viện của cõi Đâu Suất, nếu
không phát nguyện chỉ sinh vào ngoại viện như là một vị chư Thiên.
Do từ đó mà tín ngưỡng Di Lặc tịnh độ xuất hiện.
2.Dược Sư Tịnh Độ:
Đó là cõi tịnh độ của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Vương Phật. Khi còn là Bồ tát, Ngài đã phát mười hai lời nguyện để
cứu khổ chúng sinh. Chúng sinh nào khổ đau, hoạn nạn, bệnh tật biết
niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tai qua nạn khỏi, đời sống an
ổn. Do vậy, các Phật tử thường trì tụng kinh Dược Sư để cầu an,
giải khổ là nghĩa đó. Nếu phát tâm bồ đề và có ý nguyện cầu vãng
sinh thì sẽ được Ngài tiếp độ.
3.A Súc Phật Tịnh Độ:
Cõi tịnh độ này được đề cập trong kinh Duy Ma Cật,
một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Tịnh độ theo nghĩa
này là pháp tu thực tiễn được các tông phái Phật giáo Đại thừa rất
chú trọng. Tư tưởng Tịnh độ này tương ứng với tư tưởng Bát Nhã, đặc
biệt là mang tinh thần nhập thế rất tích cực, đề cao việc hành Bồ
tát hạnh và kiến lập Tịnh độ ngay tại tâm. Kinh Duy Ma Cật nhấn
mạnh rằng thanh tịnh hóa thân tâm tức là tịnh độ cõi Phật. Cư sĩ
Duy Ma Cật được xem là hiện thân của hành giả từ Quốc độ Diệu Hỷ
đến cõi này tuyên dương chính pháp, hộ trì cho Phật Thích Ca giáo
hóa chúng sinh.
4.Tây Phương Tịnh Độ:
Còn được gọi là Cực lạc thế giới, An dưỡng, Lạc
bang v.v…Kinh điển Đại Thừa thường tán thán cảnh giới thù thắng của
Tây phương và công đức bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà
là chính báo, cảnh Tây phương cực lạc là y báo. Nếu chúng sinh nào
chuyên tâm niệm danh hiệu của Ngài, tu tập thiện pháp và quán tưởng
cảnh giới Tây phương thì đến lúc lâm chung sẽ được vãng sinh về Tây
phương Tịnh Độ. Điều đáng chú ý là hành giả tu tịnh độ tin sâu vào
tha lực của đức Phật và chư Bồ Tát. Lối tu này bao gồm cả tự lực và
tha lực. Tự lực là tự mình y theo giáo pháp tu học để có đầy đủ
phúc đức mới được vãng sinh. Trong kinh A Di Đà có dạy rằng không
thể lấy chút ít căn lành và phúc đức mà được sinh về cõi Cực lạc
được. Đức Phật khuyên chúng ta phải tự mình nỗ lực mới tiếp nhận
được năng lực của Ngài. Niệm Phật còn có thể phát sinh công đức,
tiêu trừ vọng nghiệp và thành tựu thiền định.
Đó là nói sơ qua về 4 cõi tịnh độ chính mà trong các kinh điển Đại
thừa thường nhắc đến. Còn trong tài liệu này chủ yếu nói về cõi
Tịnh độ Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và pháp môn Tịnh Độ
theo Đại thừa Phật giáo.
C. Sự ra đời của pháp môn Tịnh
Độ:
Nguồn gốc tư tưởng của Tịnh Độ xuất phát từ thời
nguyên thủy, tức ngay từ thời đức Phật còn tại thế. Nhưng hình
thành rõ nét thể hiện trong kinh điển Đại thừa bắt đầu từ trong
kinh Hoa Nghiêm rồi sau là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nhưng trong
thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, tư tưởng Tịnh Độ không bộc lộ rạng
rỡ nhưng lại ăn sâu vào trong tâm khảm của giới tu tại gia. Trong
khi đó giới xuất gia lại chú trọng đến giải thoát sinh tử, đạt đến
Niết Bàn. Do đó tư tưởng Tịnh Độ vào thời kỳ này bị lu mờ, nên
trong kinh điển Tiểu thừa ít nói đến pháp môn Tịnh Độ.
Trong hệ thống kinh Bát Nhã Đại thừa, ta thấy kinh
Hoa Nghiêm có nói đến Thiện Tài Đồng Tử đi về phương nam tham học
thày Tỳ kheo Công Đức Vân, có nói rõ việc niệm Phật tam muội và
thấy Phật. Trong phẩm Nhập pháp giới của kinh Hoa Nghiêm có nói:
“Bồ tát Quang Minh dùng chính định tam muội quán sát thấy tất cả
chư Phật và quyến thuộc của Ngài ở cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh
đạt được hư không đẳng niệm Phật Tam muội môn, thấy thân Như Lai
chiếu khắp pháp giới”. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Dược
vương Bồ tát có nói: “Nếu có người phụ nữ nào nghe kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, nghe xong phát tâm tu hành, sau khi mạng chung liền vãng
sinh về thế giới của Đức Phật A Di Đà, có các vị Đại Bồ tát vây
quanh nơi đó.”
Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng
Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực lạc Tịnh
Độ, bằng tự lực với Tín, Nguyện, Hạnh tương ưng bản nguyện của Đức
Phật A Di Đà. Hành giả còn phải nương nhờ Phật lực để vãng sinh về
Cực lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Tịnh Độ tông không phải
là một pháp môn chỉ có tín ngưỡng Tịnh Độ Cực lạc và Đức Phật A Di
Đà, không phải chỉ có niềm tin, mà đó là pháp môn chủ trương con
đường tu tập Giới, Định, Tuệ mà chủ yếu là Giới và Định. Do nhờ
công phu tinh tấn niệm Phật mà thành tựu Định đạt đến nhất tâm bất
loạn, niệm Phật tam muội. Nhờ thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành Thập
thiện và tu tạo các công đức phúc lành (trong đó có hộ trì Tam bảo,
hoằng dương chính pháp, từ thiện, bố thí, phóng sinh v.v..) mà
thành tựu được Giới.
D. Lịch sử phát triển pháp mônTịnh
độ.
Khi Phật giáo phát triển sang Trung Quốc, pháp môn
Tịnh Độ đã được các vi đạo sư Trung Quốc ngưỡng mộ đi đến việc
thành lập thành một tông phái riêng. Sau này Tịnh Độ lại được
truyền sang Nhật Bản và cũng được Phật giáo Nhật Bản phát triển
mạnh. Còn ở Việt Nam, ngoài yếu tố từ Trung Quốc truyền sang, còn
có những thành tựu trực tiếp từ Ấn Độ truyền sang vào khoảng những
thế kỷ đầu sau Công nguyên. Dưới đây ta điểm qua sự phát triển lịch
sử pháp môn Tịnh Độ ở những nước phát triển Tịnh Độ.
1. Tịnh Độ tông ở Ấn Độ.
Như trên đã nói trong thời kỳ đức Phật còn tại thế
và sau đó vào những thế kỷ trước Tây lịch, trước khi tư tưởng Đại
thừa phát triển,Tịnh Độ tông ở Ấn Độ chưa hình thành pháp môn rõ
rệt. Tuy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này không bộc lộ mạnh mẽ
nhưng ăn sâu vào tâm khảm của giới tu tại gia trong khi các tăng
đoàn thuộc giới xuất gia lại quan tâm tu tập để giải thoát sinh tử,
đạt đến Niết bàn. Vì vậy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này ở Ấn Độ
chưa phát triển mạnh mẽ, có thể nói bị lu mờ và cũng chưa hình
thành tông phái rõ rệt. Cũng vì vậy mà trong kinh điển Tiểu thừa ít
thấy nói đến pháp môn Tịnh Độ. Tuy nhiên, vào những thế kỷ đầu sau
Tây lịch, khi tư tưởng Đại thừa phát triển cùng với sự phát triển
Phật giáo lên phía bắc thì tư tưởng Tịnh Độ mới có dịp phát triển
lớn mạnh và rộng rãi, nhất là ở Trung Quốc.
Do đó lý thuyết Tịnh Độ được khởi nguồn ở Ấn Độ, là
một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái, chỉ khi các
kinh điển Đại thừa Tịnh Độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh Độ mới trở
thành tông phái rõ rệt
2. Tịnh Độ tông ở Trung
Hoa:
Phật giáo từ Ấn Độ phát triển sang Trung Quốc vào
những năm đầu của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Từ đời Đông Hán
(25 – 220 SCN) về sau, đạo Phật càng ngày càng được mở rộng ở
Trung Quốc, nhưng đến đời Lục Triều trở đi mới có vẻ thịnh đạt, rồi
đến đời Tùy Đường mới là cực thịnh. Trong thời gian ấy (từ thế kỷ
thứ III đến thế kỷ thứ VI), có một vị cao tăng Ấn Độ là Cưu Ma La
Thập (344 – 413) sang Trung Quốc được tôn làm Quốc sư. Cưu Ma
La Thập đã dịch kinh và luận Đại Thừa ra Hán văn như Kinh Kim
Cương, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, Trung Quán luận, Thâp nhị môn
luận v.v…Cùng trong thời kỳ đó có những vị tăng Trung Hoa đi sang
Ấn Độ cầu pháp thỉnh kinh như vào năm Long An thứ ba (399) đời vua
An Đế nhà Đông Tấn, có các vị Pháp Hiển, Tuệ Cảnh và Đạo
Chính.
Trong quá trình phát triển, từ đời Đông Tấn (317 –
420) trở đi, các tông phái Phật giáo Đại thừa mới dần dần hình
thành ở Trung Quốc. Ta có thể lược khảo có khoảng 10 tông phái, gồm
Tịnh Độ tông, Thiền tông, Thiên Thai tông hay còn gọi là Pháp Hoa
tông (lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng), Hoa Nghiêm tông (lấy kinh
Hoa nghiêm làm cơ bản), Luật tông, Chân Ngôn tông (tức Mật tông),
Tam Luận tông, Câu Xá tông, và Thành Thật tông. Tuy nhiên về mặt
phát triển thì ở Trung Quốc có hai tông phái Tịnh Độ tông và Thiền
tông là phát triển mạnh và phát triển cho đến ngày nay.
Riêng về Tịnh Độ tông, những kinh luận thuộc giáo
nghĩa Tịnh Độ được dịch xuất hiện dần. Năm 250 thời Ngụy, ngài
Khang Tăng Ngãi dịch kinh Vô Lượng Thọ, Cư sĩ Chí Khiếm thời Tôn
Quyền dịch bộ Đại A Di Đà kinh. Đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La
Thập dịch Phật thuyết A Di Đà kinh, còn gọi là tiểu kinh A Di Đà,
rồi ngài Phật Đà Bạt Đà La (tức Giác Hiền) dịch Tân Vô Lượng Thọ
kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam
muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá dịch Quán Vô
Lượng Thọ kinh, ngài Bồ Đề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ
kinh luận. Đặc biệt, ngài Thế Thân (316 – 396), đã trước tác Vãng
sinh Tịnh Độ luận. Do đó đến thời kỳ này giáo lý về Tịnh Độ tông
tương đối hoàn chỉnh ở Trung Quốc.
Về lịch sử phát triển và truyền thừa, ta thấy rằng
cuối đời nhà Tây Tấn (265 – 317), vào khoảng năm Vĩnh Gia (307 –
313) đời vua Hoài Đế có một vị danh tăng người Thiên Trúc tên là
Phật Đồ Trừng, nổi tiếng có nhiều pháp thuật. Phật Đồ Trừng có rất
nhiều môn đồ, trong số đó có Đạo An. Ông là một vị cao tăng đã đề
xuất ý kiến lấy họ Thích làm họ chung cho những người xuất gia để
tưởng nhớ và tôn sùng Đức Thích Ca Mâu Ni. Đạo An có môn đồ là Huệ
Viễn (334 – 416) người Nhạn Môn, Sơn Tây, đến ở chùa Đông Lâm trên
núi Lư Phong cùng với 214 vị kết làm Bạch Liên xã, phát thệ trước
tượng A Di Đà Phật, xin đồng tu tịnh nghiệp. Do đó Tịnh Độ tông bắt
đầu hình thành.
Đời sau, môn đồ suy tôn Đại sư Huệ Viễn làm sơ tổ
Liên tông, tức là sơ tổ của Tịnh Độ tông ở Trung Quốc. Tông này thờ
Tam Bảo và lấy sự tụng kinh niệm danh hiệu A Di Đà Phật làm yếu chỉ
trong sự tu hành. Tông này cũng cho rằng bất kỳ người nào tu pháp
môn này cũng được, miễn là niệm Phật nhất tâm bất loạn, với niềm
tin mãnh liệt, ý nguyện vững bền và hành trì niệm Phật tinh tấn thì
đều có thể vãng sinh vào cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà ở Tây phương
Cực lạc. Vì có giáo pháp dễ theo và mọi người ai cũng có thể theo
được, nên Tịnh Độ tông ở Trung Quốc ngày một phát triển. Song, các
vị Tổ trong Tịnh Độ tông không thực hiện sự truyền thừa như các
tông phái khác là truyền tâm ấn từ đời trước cho đời sau, mà tùy
theo công đức của từng vị mà môn đồ suy tôn làm Tổ. Cho nên từ thế
kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ XX, Tịnh độ tông mới có 13 vị tổ, kể từ vị
tổ thứ nhất là Đại sư Huệ Viễn, (334-416), tiếp đến vị tổ thứ
2 là Đại sư Thiện Đạo (513-581), Đại sư Thừa Viễn
(712-802),là vị tổ thứ 3, tiếp đó là các vị Đại sư Pháp Chiếu
(747-821), Đại sư Thiếu Khang (?-805), Đại sư Diên Thọ (904-975),
Đại sư Tỉnh Thường (959-1020), Đại sư Châu Hoằng (1532-1612),
Đại sư Trí Húc (1599-1655), Đại sư Hành Sách (1628-1682), Đại
sư Thật Hiền (1686-1734), Đại sư Tế Tỉnh (1741-1810) và vị Tổ thứ
13 của Tịnh Độ tông Trung Quốc là Đại sư Ấn Quang (1862-1940),
hoằng pháp vào cuối đời Nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân
Quốc của thế kỷ XX.
3. Tịnh Độ tông ở Nhật Bản:
Tịnh Độ tông Nhật Bản vốn có nguồn gốc từ Tịnh Độ
tông Trung Quốc, được đạo sư Viên Nhân (793-864), người Nhật đem về
cùng với các giáo lý của Thiên Thai tông và Mật tông mà sư đã tiếp
thu trong thời gian du học tại Trung Quốc. Sư là người truyền bá
phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. Những vị
nổi danh của tông này trong thời gian đầu là Không Dã Thượng Nhân
(903-972), cũng được gọi là Thị Thánh, vị “Thánh ở chợ”, và Nguyên
Tín ( 942-1017). Trong thời này, niệm Phật là một thành phần trong
việc tu hành của tất cả các tông phái tại Nhật, đặc biệt là Thiên
Thai tông và Chân Ngôn tông.
Mãi đến thế kỷ XII, đạo sư Pháp Nhiên (1133-1212)
mới chính thức thành lập tông Tịnh Độ ở Nhật Bản. Sư muốn mở một
con đường tu tập mới, “dễ đi” trong thời mạt pháp cho những người
sống đau khổ. Sư rất thành công trong việc thuyết phục quần chúng
và rất nhiều người quy tụ lại, thành lập một trường phái rất mạnh.
Pháp Nhiên đã làm một cuộc cách mạng trong việc truyền bá và phát
triển Tịnh Độ tông với trào lưu rộng lớn. Và chính vì sư tự tôn
giáo lý đó là giáo lý cao nhất, nên không thoát khỏi sự tranh chấp
dèm pha. Sư bị đày ra một vùng hoang vắng năm 74 tuổi.
Giáo lí cơ sở của Pháp Nhiên dựa trên các bộ kinh
Vô Lượng Thọ, A Di Đà và Quán Vô Lượng Thọ. Cách tu hành của tông
này chỉ là việc tụng niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Việc niệm danh
hiệu Phật rất quan trọng để phát triển lòng tin nơi Phật A Di Đà,
nếu không thì hành giả không thể nào vãng sinh vào cõi của Ngài, đó
là mục đích chính của việc tu hành của tông này. Pháp Nhiên quan
niệm rằng, đa số con người không thể đi con đường khó, hoàn toàn
tin vào tự lực trong thời mạt pháp và cơ hội duy nhất của họ là tin
vào sự hỗ trợ của Phật A Di Đà, tin vào tha lực của Phật và Thánh
chúng mới giúp cho con người dễ dàng tu tập và sinh về cảnh giới
của Ngài là được an lạc trong cõi Cực lạc và được giải thoát.
Sau Pháp Nhiên là các vị Không Dã Thượng Nhân và
Lương Nhẫn. Không Dã Thượng Nhân là người đầu tiên tín ngưỡng đức
Phật A Di Đà và truyền bá công khai việc niệm Phật giữa chợ vì vậy
sư được mang biệt hiệu là “Thị Thánh” (Vị Thánh ở chợ). Còn Lương
Nhẫn nguyên là một cao tăng thuộc Thiên Thai tông, nổi danh trong
việc tín ngưỡng và tán tụng Phật A Di Đà trong những bài hát. Ở
Nhật Bản, Tịnh Độ tông cùng với Thiên Thai tông (lấy kinh Pháp Hoa
làm nền tảng) và Hoa Nghiêm tông (lấy kinh Hoa Nghiêm làm nền tảng)
ảnh hưởng lẫn nhau đều phát triển quan điểm “Dung thông niệm Phật”
tức là nếu một người nào đó niệm Phật thì công đức này sẽ đến với
tất cả những người khác và ngược lại, ai cũng có phần của mình
trong việc tụng niệm danh hiệu Phật. Cách diễn giải giáo lý này
thuyết phục được nhiều người trong vương triều và được các đệ tử kế
thừa. Và vì vậy Tịnh Độ tông ở Nhật Bản rất phát triển cho cả đến
ngày nay.
4. Tịnh Độ tông tại Việt
Nam:
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm ngay từ
thời kỳ dựng nước. Phật giáo Việt Nam có thể đã hình thành từ trước
Công nguyên và phát triển mạnh từ khoảng thế kỷ thứ II và thứ III
sau Công nguyên, khi đất nước còn là đất Giao Chỉ phụ thuộc vào các
triều đại phong kiến của Trung Quốc. Sử liệu Phật giáo để lại cho
rằng các tăng sĩ Ấn Độ đi truyền giáo theo đường biển đã vào Giao
Châu và ở lại đây hoằng pháp.
Mãi đến cuối thế kỷ thứ VI, Phật giáo ở Việt Nam
mới có tổ chức hệ thống, mở đầu bởi thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(còn gọi là dòng thiền Nam Phương). Sang thế kỷ thứ IX, có thêm
thiền phái Vô Ngôn Thông (còn gọi là dòng thiền Quan Bich) và đến
thế kỷ thứ XI đời nhà Lý, lại có thêm thiền phái Thảo Đường. Rồi
tiếp theo là thiền phái Yên Tử và Trúc Lâm Yên Tử. Các thiền phái
này phát triển và làm cho Phật giáo Việt Nam hưng thịnh. Bên cạnh
đó trào lưu niệm Phật theo tư tưởng Tịnh Độ vẫn xuất hiện đan xen
trong các thiền phái.
Có thể thấy rằng trào lưu Tịnh Độ ở nước ta dẫu có một lịch sử
lâu dài nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái, không
có vị trí độc lập, tách biệt với các tông phái khác, đồng thời cũng
không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh Độ
tông ở Trung Hoa hay Nhật Bản. Tuy ở Việt Nam từ trước tới
nay Tịnh Độ tông chưa thành một hệ thống pháp môn riêng biệt, nhưng
sau thời nhà Trần, khoảng đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XX, phương
pháp tu hành của Tịnh Độ dưới hình thức đọc tụng kinh A Di Đà và
niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Phương pháp này đã được kết hợp hài hoà
với các thiền phái tại Việt Nam thể hiện qua thực tế sinh hoạt tâm
linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam, thì thấy rằng dấu ấn của
pháp môn Tịnh Độ là hết sức sâu đậm. Ta có thể điểm qua một cách hệ
thống một số nét phát triển tư tưởng Tịnh Độ tông ở Việt Nam như
sau:
Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm
nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam xuất hiện trong tác phẩm Cựu
tạp thí dụ kinh do Khương Tăng Hội (?-280) soạn. Pháp môn niệm Phật
cũng đã được đề cập trong cuốn Lục độ tập kinh cũng do Khương Tăng
Hội soạn. Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam. Như
vậy, ngay từ rất sớm, vào trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng
tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới thiệu tại nước ta, người Phật
tử Việt Nam cũng đã bước đầu được tiếp xúc với tư tưởng tín ngưỡng
Tịnh Độ. Và sau đó, vói sự xuất hiện của bản kinh quan trọng là
kinh Vô lượng thọ do nhà sư Đàm Hoằng (?-455), một vị tăng người
Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng
sinh Cực Lạc, đến Việt Nam tu học tại nước ta, truyền bá.
Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, tức từ sau sư Đàm Hoằng đến nửa
đầu thế kỷ thứ IX, chúng ta hiện không có tư liệu nào để lại đề cập
đến Tịnh Độ.
Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, khuynh hướng Tịnh Độ
được phổ biến rộng rãi, với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo,
nhiều đạo tràng. Đặc biệt vua Lý Thánh Tông (1023-1072), thuộc
Thiền phái Thảo Đường, đã cho tạc một pho tượng Phật A Di Đà độc
đáo có một không hai trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc của dân
tộc, pho tượng này hiện nay vẫn còn ở chùa Phật Tích. Ngoài ra, còn
có tượng Phật A Di Đà do nhà sư Trì Bát (1049-1117) thuộc thế hệ
thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi tạo dựng năm 1099 ở chùa
Hoàng Kim, xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai và tượng A Di Đà trong hội
đèn Quảng Chiếu trước Đoan Môn, được tạo lập để cầu nguyện cho
hoàng hậu Linh Nhân siêu sinh tịnh độ v.v… chứng tỏ Thiền
tông và Tịnh Độ tông kết hợp với nhau. Cùng với tín ngưỡng A Di Đà,
tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở thời
kỳ này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên
phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh Độ đã thực sự có một vị trí
quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân
ta.
Thế kỷ XII, theo tác phẩm Thiền uyển Tập Anh, ta
thấy có nhiều thiền sư theo các thiền phái khác nhau nhưng vẫn hành
trì theo pháp môn Tịnh Độ, như Thiền sư Tịnh Lực (1111-1175), thuộc
thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông, thường thực hành sám hối và
thâm nhập được pháp môn Niệm Phật tam muội v.v… Đến đời
Trần, các nhà tư tưởng lớn như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông
cũng bàn đến vấn đề niệm Phật. Tư tưởng Tịnh Độ cũng được đưa vào
trong các kỳ thi tuyển nhân tài do triều đình tổ chức mà ta có thể
biết được qua bài thi của Lê Ích Mộc (1459-?) thi đỗ Trạng
Nguyên trong khóa thi năm Nhâm tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502)
đời Lê Hiến Tông . Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân tông chủ
trương cũng có nói về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc nhưng
cũng ở một khía cạnh khác.
Từ thế kỷ thứ XVI trở đi trào lưu Tịnh Độ cũng được
phát triển mạnh mẽ thể hiện qua một vài tác phẩm của các danh tăng
nhằm cổ súy và truyền bá tư tưởng Tịnh Độ như cuốn Bồ đề yếu nghĩa
của Ngài Viên Văn (1590-1644) nói về Tự tính Di Đà. Thiền sư
Minh Châu Hương Hải (1628-1708) phiên âm A Di Đà kinh sớ sao của
Ngài Châu Hoằng và một số tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh độ
của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) v.v… cho phép ta thấy pháp môn
Niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc là một khuynh hướng tín
ngưỡng lớn thời bấy giờ. Tuy nhiên quan niệm Tịnh Độ của Phật tử
Việt Nam mang những đặc thù riêng mặc dù có sự ảnh hưởng của Tịnh
Độ Trung Quốc.
Những đặc điểm đó thể hiện ở
chỗ:
– Danh hiệu đức Phật A Di Đà xuất hiện sớm nhất ở
Việt Nam qua Cựu tạp thí dụ kinh và Lục độ tập kinh vào giữa thế kỷ
thứ III. Mặt khác, nhà sư Đàm Hoằng (?-455) chuyên hành trì pháp
môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng sinh Cực lạc đã đến Việt Nam tu học
vào đầu thế kỷ thứ V vào năm 422, cách thời điểm Ngài Huệ Viễn sáng
lập Tịnh Độ tông Trung Quốc (năm 422) chỉ khoảng sau 20
năm.
– Tuy tư tưởng Tịnh Độ lễ Phật A Di Đà xuất hiện
sớm ở Việt Nam và trở thành một trong những trào lưu chủ yếu của
đời sống tín ngưỡng của Phật giáo nước ta, nhưng không hình thành
một tông phái với chủ trương, lịch sử truyền thừa chặt chẽ và độc
lập, tách biệt với các tông phái khác như Thiền, Mật hay Luật tông
ở Trung Hoa và Nhật Bản. Ở nước ta, Tịnh Độ tông không đứng biệt
lập và không hề thấy xảy ra những tranh luận với các hệ tư tưởng
khác cũng như đấu tranh trong tự thân nó để phát triển.
– Tịnh Độ tông ở Việt Nam phát triển, tồn tại, đan
xen và song song với Thiền tông. Vua Trần Thái Tông (1218-1277),
một nhà thiền học đã để lại nhiều tác phẩm trong đó có Khóa Hư Lục.
Trong tác phẩm Phật học này có hẳn một chương Niệm Phật luận bàn về
những lợi ích niệm Phật. Trần Thái Tông quan niệm tự tính Di Đà và
tịnh độ chỉ có ở ngay hiện tiền, trong tâm của con người này mà
không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian. Quan điểm
đó cũng thống nhất trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ
(1230-1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308). Trong bài phú nổi tiếng
Cư trần lạc đạo phú của mình, nói lên chủ trương của dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông đã viết : “Tịnh độ là lòng trong
sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương. Di Đà là tính sáng soi, mựa
phải nhọc tìm về Cực lạc”. Như vậy, trên mặt lý luận, quan
niệm Tịnh Độ ở đây được nhìn và giải thích theo đôi mắt thiền. Đấy
là một trong những đặc điểm của trào lưu Tịnh Độ ở giai đoạn thời
Trần nói riêng và cũng là một trong những đặc điểm căn bản trên
phương diện lý luận của tư tưởng Tịnh Độ tại Việt Nam nói
chung.
Từ thế kỷ XVII, có sự thâm nhập của Tịnh Độ tông
Trung Hoa, cũng được các chư tăng như Viên Văn Chuyết Chuyết
(1590-1644), Minh Châu Hương Hải (1628-1708) và Chân Nguyên
(1647-1726) v.v…truyền bá rộng rãi, đã mô tả thế giới Cực lạc và
chủ trương niệm Phật để nhẹ nghiệp chướng, được vãng sinh về thế
giới Tây phương Tịnh độ. Điều đó phù hợp với nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng của quảng đại quần chúng Phật tử, nhất là cuối thế kỷ XIX và
nửa đầu thế kỷ XX khi đất nước nằm trong tình trạng bị xâm
lược, đời sống nhân dân cơ cực dưới sự đô hộ của thực dân Pháp.
Trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều đạo tràng chuyên thực hành
niệm Phật như Liên Trì xã, Niệm Phật liên xã. Cao trào này được
phản ánh qua tác phẩm Phổ Khuyến Niệm Phật của nhà sư Tánh Thiên
(1784-1847) và nhiều tác phẩm của các danh tăng khác như các vị
Toàn Nhật (1755-1832), Tâm Truyền (1832-1911), Phước Huệ
(1875-1863) v.v…
Đầu thế kỷ XX, dưới chế độ bảo hộ của Pháp, các tổ
chức Phật giáo chỉ được mang danh nghĩa là các Hội đoàn, không được
coi là Giáo hội. Vì vậy nhiều tổ chức Phật giáo đầu tiên lần lượt
xuất hiện, bắt đầu từ miền Nam, ra miền Trung rồi miền Bắc. Nhất là
từ năm 1920 và trong thập kỷ thứ 3 của thế kỷ XX, phong trào Chấn
Hưng Phật giáo nổi lên rầm rộ ở các các miền Bắc, Trung , Nam.
Nhiều hội đoàn về Phật giáo được thành lập và phát triển, nhiều tờ
báo Phật học ra đời ở cả 3 miền. Giữa thế kỷ XX, do nhiều biến cố
của đất nước, Phật giáo nói chung và Tịnh Độ nói riêng cũng phải
qua nhiều khó khăn. Song riêng về pháp môn Tịnh Độ cũng được duy
trì, củng cố và phát triển. Năm 1955, cố Hoà thượng Thích Trí Tịnh
đã cho sáng lập hội Cực Lạc Liên Hữu, một đạo tràng chuyên tu Tịnh
Độ đầu tiên của Việt Nam tại Chùa Vạn Đức, thành phố Hồ Chí
Minh.Trong khoảng thời gian này cả Phật giáo đàng trong và Phật
giáo đàng ngoài đều rất ưa chuộng pháp môn Tịnh Độ. Đặc biệt năm
1968 cố Hoà thượng Thích Thiền Tâm đã cho thành lập Đạo Tràng Tịnh
Độ để chuyên tu ở Đại Ninh (Đức Trọng, Lâm Đồng) và dịch kinh Niệm
Phật Ba La Mật. Tới năm 1970 cố Hoà Thượng còn cho mở Hương Nghiêm
Tịnh Viện, năm 1974 cho mở khoá chuyên tu Tịnh Độ suốt ba
năm. Cho đến ngày nay, pháp môn Tịnh Độ đã được phát triển mạnh mẽ
và tỏa khắp các miền trong đất nước.
Tóm lại, trào lưu Tịnh Độ ở Việt Nam ta đã có một
lịch sử lâu dài, nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái
riêng biệt, không có vị trí độc lập và tách rời với các pháp môn
khác mà thường hòa quyện cùng với Thiền tông và Mật tông, đồng thời
cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như
Tịnh Độ tông Trung Hoa hay Nhật Bản.
Sự không tách biệt độc lập này, có lẽ thuộc về đặc tính của dân
tộc ta, cũng như đã thấy trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua
sự ra đời, sinh hoạt và truyền thừa của các dòng thiền. Dẫu là
thiền sư, nhưng trong thực hành tâm linh thì vẫn trì tụng thần chú
(Mật tông) và niệm danh hiệu Phật (Tịnh Độ tông).
Đến nay Tịnh Độ tông đã được phát triển khắp đất
nước. Rất nhiều đạo tràng niệm Phật A Di Đà xuất hiện khắp nơi,
nhiều khóa tu Phật thất và khóa tu Một ngày niệm Phật cũng được
phát triển làm cho pháp môn Tịnh Độ ngày càng ăn sâu vào tâm thức
các Phật tử, bên cạnh sự phát triển của Thiền tông và Mật tông
trong cả nước.
Còn nữa…
Phạm Đình Nhân